Dịch vụ số – Doisongkinhte.com https://doisongkinhte.com Cập nhật tin tức kinh tế và những lời khuyên hữu ích cho cuộc sống. Fri, 05 Sep 2025 02:52:44 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/news/2025/08/doisongkinhte.svg Dịch vụ số – Doisongkinhte.com https://doisongkinhte.com 32 32 Việt Nam có thể trở thành trung tâm dịch vụ số ASEAN nhờ Luật Công nghiệp công nghệ số https://doisongkinhte.com/viet-nam-co-the-tro-thanh-trung-tam-dich-vu-so-asean-nho-luat-cong-nghiep-cong-nghe-so/ Fri, 05 Sep 2025 02:52:41 +0000 https://doisongkinhte.com/viet-nam-co-the-tro-thanh-trung-tam-dich-vu-so-asean-nho-luat-cong-nghiep-cong-nghe-so/

Việc Việt Nam có thể giảm phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài và xây dựng nền kinh tế số vững mạnh với Luật Công nghiệp công nghệ số mới ban hành là một câu hỏi quan trọng trong bối cảnh đất nước đang nỗ lực đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số và giảm sự phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu.

Phát triển các nền tảng và công cụ nội địa sẽ giúp mở rộng quyền truy cập cho người dùng Việt Nam. (Hình: Pexels)
Phát triển các nền tảng và công cụ nội địa sẽ giúp mở rộng quyền truy cập cho người dùng Việt Nam. (Hình: Pexels)

Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu. Tuy nhiên, gần đây, đất nước đang chịu áp lực ngày càng lớn từ căng thẳng thương mại toàn cầu. Các biện pháp thuế quan gần đây của Mỹ đã bộc lộ sự phụ thuộc của Việt Nam không chỉ vào thị trường nước ngoài mà còn vào công nghệ nhập khẩu, đặc biệt trong các lĩnh vực như điện toán đám mây, an ninh mạng và trí tuệ nhân tạo (AI).

Trong bối cảnh này, việc xem xét lại chiến lược số của đất nước là cần thiết. Thay vì tiếp tục dựa vào nền tảng và hạ tầng nước ngoài, Việt Nam có thể đẩy nhanh quá trình tự chủ bằng cách đầu tư vào công nghệ trong nước. Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua mới đây là một khung pháp lý kịp thời để hỗ trợ quá trình chuyển đổi này.

Một trong những vấn đề quan trọng là giảm phụ thuộc vào công nghệ nhập khẩu. Hiện tại, Việt Nam nhập khẩu phần lớn hạ tầng kỹ thuật số, từ phần cứng, phần mềm đến các dịch vụ đám mây và Internet vạn vật (IoT). Những công nghệ này chủ yếu đến từ các quốc gia như Mỹ và Israel, có chi phí cao và hạn chế quyền kiểm soát dữ liệu.

Việc phát triển các nền tảng và công cụ trong nước sẽ giúp giảm thiểu rủi ro trên và mở rộng quyền truy cập cho người dùng Việt Nam. Các nền tảng, công cụ trong nước sẽ lưu trữ và chia sẻ dữ liệu theo quy định của Việt Nam, qua đó cũng đảm bảo tuân thủ các yêu cầu về quyền riêng tư và chủ quyền dữ liệu trong Luật Công nghiệp công nghệ số.

Tầm quan trọng của các nền tảng công nghệ nội địa không thể bị bỏ qua. Ngoài các dịch vụ đám mây và an ninh mạng đang phụ thuộc vào nhà cung cấp quốc tế, thị trường tiêu dùng số của Việt Nam cũng bị chi phối bởi các nền tảng nước ngoài như Shopee và Grab. Tuy nhiên, với đầu tư đúng đắn vào kỹ năng và hạ tầng, chúng ta có thể khắc phục sự mất cân bằng này.

Ấn Độ là một ví dụ đáng tham khảo. Các nền tảng nội địa như Ola và Rapido đã thành công trong việc cạnh tranh với Uber bằng cách cung cấp dịch vụ phù hợp với nhu cầu địa phương. Các nền tảng Việt Nam có thể đi theo con đường tương tự, đặc biệt khi nhận được ưu đãi tài chính và hỗ trợ kinh phí mua sắm công nghệ mà Luật Công nghiệp công nghệ số đề ra.

Bên cạnh đó, việc xây dựng lực lượng lao động hỗ trợ tăng trưởng số cũng là yếu tố quan trọng. Lợi thế nhân khẩu học của Việt Nam là rất rõ ràng khi cả nước có đến 51,7% dân số dưới 34 tuổi tính đến năm 2024. Lực lượng lao động trẻ, am hiểu công nghệ này là tài sản lớn trong quá trình chuyển đổi từ sản xuất giá rẻ sang nền kinh tế số.

Tuy nhiên, chỉ 28,8% người lao động có bằng cấp, chứng chỉ từ sơ cấp trở lên – điều này cho thấy khoảng cách đáng kể giữa cung và cầu kỹ năng. Việc hợp tác giữa các trường và doanh nghiệp để thiết kế chương trình đào tạo và đánh giá người học sẽ rất quan trọng.

Chính phủ nên triển khai các nỗ lực đưa công nghệ thông tin vào chương trình học từ sớm. Đồng thời, cần xem xét hỗ trợ các cơ sở đào tạo nhỏ cung cấp các khóa học nâng cao kỹ năng và cấp chứng chỉ theo nhu cầu của các ngành.

Tóm lại, Luật Công nghiệp công nghệ số là một bước đi chiến lược hướng tới chủ quyền số và một nền kinh tế vững bền. Bằng cách thúc đẩy đổi mới trong nước, giảm phụ thuộc vào các nền tảng nước ngoài và đầu tư vào nguồn nhân lực, Việt Nam đang đặt nền móng để trở thành quốc gia lãnh đạo nền kinh tế số Đông Nam Á trong dài hạn.

]]>
95% người dân và doanh nghiệp sẽ hài lòng với dịch vụ số trong năm 2026 https://doisongkinhte.com/95-nguoi-dan-va-doanh-nghiep-se-hai-long-voi-dich-vu-so-trong-nam-2026/ Fri, 25 Jul 2025 02:17:13 +0000 https://doisongkinhte.com/95-nguoi-dan-va-doanh-nghiep-se-hai-long-voi-dich-vu-so-trong-nam-2026/

Chính phủ đang đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) thông qua việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) và cải thiện trải nghiệm người dùng. Văn phòng Chính phủ sẽ chủ trì, phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nội vụ để triển khai ứng dụng AI trong cung cấp DVCTT trên Cổng Dịch vụ công quốc gia.

Xây dựng Khung Kiến trúc tổng thể quốc gia số hoàn thành trong tháng 8/2025
Xây dựng Khung Kiến trúc tổng thể quốc gia số hoàn thành trong tháng 8/2025

Mục tiêu chung của kế hoạch là đảm bảo chất lượng, thuận tiện, minh bạch, hiệu quả và tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân và doanh nghiệp khi sử dụng DVCTT. Kế hoạch cũng hướng đến phát triển các dịch vụ số mới, được cá nhân hóa dựa trên dữ liệu để tối ưu hóa các dịch vụ công theo nhu cầu cụ thể của từng cá nhân và doanh nghiệp.

Dữ liệu khai thác từ cơ sở dữ liệu các chương trình mục tiêu quốc gia có giá trị sử dụng chính thức
Dữ liệu khai thác từ cơ sở dữ liệu các chương trình mục tiêu quốc gia có giá trị sử dụng chính thức

Đến năm 2025, kế hoạch đặt ra mục tiêu cung cấp DVCTT trên Cổng Dịch vụ công quốc gia đối với toàn bộ thủ tục hành chính (TTHC) đủ điều kiện cung cấp DVCTT toàn trình, một phần. Đồng thời, duy trì và cung cấp thực chất, hiệu quả 25 DVCTT toàn trình đã tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Về chất lượng, các DVCTT cần đảm bảo 4 nhóm tiêu chí chính, bao gồm: có biểu mẫu điện tử tương tác và tự động điền dữ liệu khi đã có sẵn trong các cơ sở dữ liệu; thời gian trung bình tính từ lúc đăng nhập cho đến khi người dân, doanh nghiệp nộp hồ sơ trực tuyến thành công đối với các DVCTT là dưới 8 phút; thời gian trung bình tính từ khi công chức, viên chức tiếp nhận, xử lý hồ sơ cho đến khi trả kết quả cho người dân, doanh nghiệp trong trường hợp nộp trực tuyến giảm tối thiểu 20% so với hình thức nộp trực tiếp; tỷ lệ người dân, doanh nghiệp đánh giá hài lòng khi sử dụng DVCTT đạt tối thiểu 90%.

Đến năm 2026, kế hoạch đặt ra mục tiêu tỷ lệ người dân, doanh nghiệp đánh giá hài lòng khi sử dụng DVCTT đạt tối thiểu 95%. Đồng thời, các DVCTT cần đảm bảo thời gian trung bình tính từ lúc đăng nhập cho đến khi người dân, doanh nghiệp nộp hồ sơ trực tuyến thành công đối với các DVCTT là dưới 5 phút; thời gian trung bình tính từ khi công chức, viên chức tiếp nhận, xử lý hồ sơ cho đến khi trả kết quả cho người dân, doanh nghiệp trong trường hợp nộp trực tuyến giảm tối thiểu 30% so với hình thức nộp trực tiếp.

Để đạt được các mục tiêu trên, kế hoạch đề xuất một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, bao gồm: rà soát, hoàn thiện thể chế, cơ chế để triển khai DVCTT toàn trình; hoàn thiện và đưa vào khai thác hiệu quả các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu dùng chung của cơ quan nhà nước; đẩy nhanh số hóa hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC; ứng dụng công nghệ AI để nâng cao chất lượng sử dụng DVCTT.

Các bộ, ngành, địa phương được yêu cầu đẩy nhanh việc cung cấp DVCTT thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã trước ngày 15/8/2025; của cấp tỉnh trong năm 2025. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương cần hoàn thành việc triển khai đầy đủ phương án bảo đảm an toàn thông tin theo cấp độ được phê duyệt đối với 100% hệ thống thông tin đang vận hành trước tháng 12/2025.

Thông tin chi tiết về kế hoạch có thể được tìm thấy trên trang web của Văn phòng Chính phủ.

]]>